Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế biển

16:56, Thứ Năm, 9-1-2020

Để xây dựng Quảng Trị trở thành tỉnh mạnh về biển, giàu lên từ biển, phát triển bền vững kinh tế biển, những năm qua, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh tập trung thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động số 144-CTHĐ/TU, ngày 24/4/2019 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Tàu vỏ thép đánh bắt xa bờ của ngư dân Quảng Trị.

Quảng Trị là tỉnh có tiềm năng, lợi thế về biển, với 75 km chiều dài bờ biển trải dài trên 12 xã, thị trấn giáp biển và 4 xã có cửa lạch từ huyện Vĩnh Linh đến huyện Hải Lăng; ngư trường rộng gần 8.400 km2 , trữ lượng hải sản khoảng 60.000 tấn/năm; là nơi tập trung nhiều loại hải sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao; có huyện đảo Cồn Cỏ cách đất liền khoảng 30 km, diện tích 2,2 km2 , với hệ sinh thái đa dạng, có nhiều rạn san hô quý hiếm, là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật biển.. Dọc bờ biển của tỉnh có nhiều vùng kín gió thuận lợi cho phát triển cảng, xây dựng khu sửa chữa, neo đậu tàu thuyền; có nhiều bãi tắm đẹp, danh lam thắng cảnh là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái biển; có nhiều tài nguyên khoáng sản như khí tự nhiên, titan, cát trắng... tiềm năng để phát triển các ngành công nghiệp về năng lượng, sản xuất thủy tinh, pha lê... Vì vậy, việc phát huy tiềm năng về tài nguyên biển, đảo và vùng ven biển gắn với bảo vệ hệ sinh thái không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường mà còn góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Để thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển trong giai đoạn trước mắt và lâu dài, tỉnh chủ động rà soát, bổ sung quy hoạch, các chính sách về kinh tế biển theo hướng liên kết, phát triển bền vững. Tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực và chuyển giao tri thức về biển; bổ sung quy hoạch các đô thị ven biển. Rà soát, điều chỉnh và xây dựng đồng bộ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển, đảo theo hướng quản lí tổng hợp, phù hợp với hệ sinh thái biển, bảo đảm sự gắn kết hài hòa, đồng bộ giữa bảo tồn và phát triển các vùng đất liền, vùng ven bờ, vùng biển, hải đảo của tỉnh và các tỉnh lân cận. Tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp ven biển của tỉnh thành khu vực phát triển năng động, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh, trong đó lấy Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị làm hạt nhân, phát triển công nghiệp đa ngành. Đầu tư hệ thống cảng biển và phát triển dịch vụ vận tải biển. Tăng cường thu hút đầu tư xây dựng cụm Cảng nước sâu Mỹ Thủy, nâng cấp cảng Cửa Việt để khai thác lợi thế về dịch vụ cảng, vận tải biển và các dịch vụ liên quan. Phát triển hợp lí các ngành sửa chữa đóng tàu, công nghiệp phụ trợ.

Tỉnh Quảng Trị chú trọng phát triển du lịch, dịch vụ biển, đảo trở thành một trong những ngành kinh tế chủ lực của kinh tế biển. Tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển hạ tầng du lịch đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm khoa học, các khu du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp vùng ven biển Cửa Việt, Cửa Tùng và đảo Cồn Cỏ; xây dựng, phát triển, đa dạng hoá các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển địa phương trên cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị văn hoá, lịch sử đặc sắc của các vùng, miền, kết nối với các tuyến du lịch trên Hành lang kinh tế Đông - Tây để Quảng Trị trở thành điểm đến hấp dẫn trong nước và khu vực.

Ngành thủy sản ven biển chuyển mạnh từ nuôi trồng, khai thác hải sản theo phương thức truyền thống sang công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển đi đôi với thực hiện đồng bộ, có hiệu quả công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho ngư dân. Thực hiện các chính sách tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ ngư dân đầu tư đóng mới tàu có công suất cao, đánh bắt xa bờ. Đầu tư nâng cấp các cảng cá, các bến cá, khu neo đậu tàu thuyền và tổ chức tốt các dịch vụ hậu cần nghề cá. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng, khai thác, bảo quản, chế biến hải sản, tạo ra các sản phẩm chủ lực, có chất lượng, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.

Thúc đẩy đầu tư xây dựng, khai thác điện khí, điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác. Quan tâm phát triển một số ngành kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đa dạng sinh học biển như dược liệu biển; nuôi trồng, chế biến rong, tảo biển... Tham gia các dịch vụ phụ trợ cho sản xuất năng lượng tái tạo trên địa bàn.

Phát triển đồng bộ, từng bước hình thành khu kinh tế, các khu đô thị sinh thái ven biển. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng biển. Nâng cao chất lượng chăm sóc y tế, giáo dục, cung cấp đầy đủ điện, thông tin liên lạc, nước ngọt, bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư vùng ven biển và những người lao động trên biển. Chú trọng phát triển các thiết chế văn hoá cho cộng đồng dân cư ven biển; phát huy bản sắc, giá trị lịch sử và văn hoá dân tộc, tri thức tốt đẹp trong ứng xử với biển, coi đây là nền tảng quan trọng để xây dựng văn hoá biển; bảo tồn không gian văn hoá, kiến trúc và di sản thiên nhiên. Nâng cao nhận thức về biển và đại dương, xây dựng xã hội, ý thức, lối sống, hành vi văn hoá gắn bó, thân thiện với biển, phát huy tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng dân cư vùng biển.

Củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân vùng biển. Xây dựng lực lượng vũ trang, trong đó chú trọng xây dựng lực lượng dân quân biển vững mạnh, có số lượng hợp lí, chất lượng cao. Đồng thời, từng bước đầu tư xây dựng các công trình quốc phòng trên các khu vực trọng yếu, tuyến biển, đảo. Chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác nắm tình hình, chuẩn bị tốt lực lượng, phương tiện, sẵn sàng tham gia đấu tranh với các hoạt động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán các vùng biển Việt Nam.

Đẩy mạnh huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ động thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ, trình độ quản lí tiên tiến từ các nước phát triển. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tập đoàn kinh tế biển mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh trên biển, đặc biệt là ở các vùng biển xa bờ. Tích cực, chủ động, liên hệ, phối hợp với các bộ, ngành trung ương để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đầu tư trên địa bàn, nhất là đối với vùng ven biển.

Nguồn: http://ubmttqvn.quangtri.gov.vn/

Các tin khác
Chi tiết bài viết tạm thời không có.