Xem chi tiết giới thiệu - Quảng Trị
Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý:
Với vị trí là cửa ngõ quan trọng của Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC) về phía Việt Nam, Quảng Trị có vị trí đầu mối để thu hút đầu tư, giao thương, giao lưu văn hóa, thu hút khách du lịch các nước Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS), đặc biệt là các nước trên EWEC và các nước thứ 3 vào miền Trung Việt Nam. Bên cạnh đó, Quảng Trị cũng là đầu mối, điểm kết nối giữa 3 sản phẩm du lịch là: EWEC - Con đường di sản miền Trung - Con đường huyền thoại, cộng với những điều kiện tự nhiên và hệ thống di tích lịch sử đồ sộ, Quảng Trị có nhiều tiềm năng trở thành một điểm đến nổi trội của du lịch Việt Nam. Tuy nhiên du lịch Quảng Trị chỉ có thể phát triển mạnh trong thế liên kết với các tỉnh miền Trung Việt Nam và các địa phương trên EWEC, các nước trong khu vực.
Là một trong 6 tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, nằm ở cực phía Bắc, thuộc khu vực đầu tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây, tỉnh Quảng Trị là một trong những cửa ngõ thông thương quốc tế, có vị thế liên kết đặc biệt với sự phát triển của các nước trong tiểu vùng, đồng thời cũng là tỉnh có vị trí và vai trò rất quan trọng vùng biên giới Việt - Lào, với những tiềm năng và cơ hội để phát triển các ngành kinh tế biển, kinh tế cửa khẩu, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh & khu vực.
Điều kiện tự nhiên:
1 - Đặc điểm địa hình, địa chất
Tỉnh Quảng trị có cấu trúc địa hình cao từ Tây Nam và thấp dần ra biển ở phía Đông Bắc.
Địa hình có thể chia làm 5 dải song song với đường bờ biển: vùng núi cao Trường sơn, vùng trung du, vùng đồng bằng, vùng đất trũng và dải cồn cát ven biển và đảo Cồn Cỏ.
Hai huyện Hướng hoá và ĐaKrông gần như trọn vẹn là 2 huyện miền núi. Cam Lộ chủ yếu là trung du, có thị xã Quảng Trị và thành phố Đông Hà nằm trong vùng từ trung du tới đồng bằng, còn 4 huyện còn lại đều trải dài từ rìa vùng núi cao ra biển. Huyện đảo Cồn Cỏ có hình vòm thoải, cao ở giữa và thấp dần xung quanh đảo.
Vùng núi cao là rừng đầu nguồn, địa hình hiểm trở, cao, dốc, ít thuận lợi cho phát triển đô thị và công nghiệp.
Vùng trung du và đồng bằng cao tương đối bằng phẳng, nền đất ổn định, thuận lợi cho phát triển, đặc biệt là vùng trung du.
Vùng trũng ven biển là một túi trũng, nền đất yếu, thường xuyên bị ngập úng, có sông chạy dọc biển - đặc thù của các tỉnh miền trung. Khu vực này hàng năm đều bị lũ lụt nặng nề, không thuận lợi cho phát triển.
Sát biển là dải cồn cát, có địa hình cao hơn phía trong, như một dải đê bảo vệ đồng bằng bên trong. Đây là khu vực có tiềm năng phát triển về kinh tế ven biển, tuy nhiên có nhiều rủi ro, do nguy cơ bị ảnh hưởng của bão, và nước biển dâng.
Hệ thống nước tỉnh Quảng trị bao gồm lưu vực sông Bến Hải và Thạch Hãn, trọn vẹn từ thượng nguồn tới cửa biển. Vì thế, cũng có thể quản lý dưới dạng quản lý lưu vực sông.
Đặc điểm là các sông ngắn, dốc, vùng cửa biển lại bằng, thấp, nên nguy cơ có lũ ống, lũ quét trên vùng núi và ngập lụt ở vùng trũng ven biển rất cao.
Vùng thượng nguồn và trung du có một loạt hồ chứa rất lớn. Những hệ thống hồ chứa, đập thuỷ điện thượng nguồn có thể điều tiết nước, nhưng cũng có thể mang lại rủi ro cao.
Quảng Trị nằm trong khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của bão. Bão có cường suất gió mạnh kèm theo mưa lớn tạo ra lũ quét ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư.
Thuỷ triều trên dải bờ biển Quảng Trị có chế độ bán nhật triều không đều, gần 1/2 số ngày trong hàng tháng có 2 lần nước lớn, 2 lần nước ròng. Mực nước đỉnh triều tương đối lớn từ tháng 8 đến tháng 12 và nhỏ hơn từ tháng 1 đến tháng 7.
3 - Đặc điểm khí hậu, khí tượng
Quảng Trị nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nền nhiệt độ cao, chế độ ánh sáng và mưa, ẩm dồi dào. Quảng Trị cũng được coi là vùng có khí hậu khá khắc nghiệt, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô nóng thổi mạnh từ tháng 3 đến tháng 8, thường gây nên hạn hán. Từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc kèm theo mưa, dễ gây lũ lụt.
Nhiệt độ trung bình năm từ 24.5độ C ÷ 25.5độ C ở vùng đồng bằng, 22độ C ÷ 23độ C ở vùng núi (độ cao khoảng gần 400m). Biên độ nhiệt giữa các tháng lạnh nhất và nóng nhất trong năm chênh lệch 8độ C ÷ 10độ C.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 ÷ 2.400 mm, số ngày mưa trong năm dao động từ 130 ÷ 160 ngày ở vùng đồng bằng và 170 ÷ 190 ngày ở vùng núi. Chế độ mưa ở Quảng Trị biến động rất mạnh theo các mùa và cả các năm. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 12, trong đó, trên 50% lượng mưa năm tập trung vào tháng 9 đến tháng 11. Mùa khô thường kéo dài tháng 1 đến tháng 7 năm sau, với tổng lượng mưa chỉ chiếm khoảng 20 ÷ 25% tổng lượng mưa năm.
Độ ẩm tương đối trung bình năm khoảng 83 ÷ 88%. Giữa hai miền Đông và Tây Trường Sơn chế độ ẩm cũng phân hóa khác nhau. Tháng 4 đến tháng 8 là các tháng có độ ẩm thấp trong năm, tháng 4 có năm độ ẩm thấp nhất xuống đến 18 ÷ 21%. Trong những tháng mùa mưa, độ ẩm tương đối trung bình thường trên 85%, có khi lên đến 88 ÷ 90%.
Tổng số giờ nắng hàng năm trên khu vực khá cao đạt từ 1770 - 1950 giờ. Các tháng có số giờ nắng cao thường tập trung từ tháng 5 đến tháng 7 và thấp nhất vào tháng 12, trên toàn tỉnh.
Lượng bốc hơi hàng năm có sự phân hóa giữa 2 vùng, đồng bằng lượng bốc hơi lớn đạt khoảng 1200 ÷ 1300mm, trong khi vùng núi chỉ khoảng 800 ÷ 850mm.
Hàng năm chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính là gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc. Đặc biệt gió Tây Nam khô nóng ở Quảng Trị là hiện tượng rất điển hình, được đánh giá là dữ dội nhất ở nước ta. Trong các đợt gió Tây Nam khô nóng, nhiệt độ có thể lên tới 40 độ C ÷ 42 độ C. Trung bình mỗi năm có khoảng 60 ÷ 70 ngày nắng nóng ở vùng đồng bằng. Gió Tây Nam khô nóng làm ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Quảng Trị cũng "nổi tiếng" với đặc sản nắng nóng liên tục suốt gần nửa năm ở những vùng đồng bằng. Nguồn nắng từ khái niệm khắc nghiệt đã được chính quyền tỉnh biến thành nguồn động lực phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp năng lượng.
Quảng Trị cũng là nơi nằm trong khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới. Mùa bão thường tập trung từ tháng 8 đến tháng 11, trung bình mỗi năm chịu tác động trực tiếp của khoảng 2 cơn.