Xem chi tiết giới thiệu - Quảng Trị
Tài nguyên thiên nhiên
1 - Tài nguyên khoáng sản:
Theo kết quả điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản (ở tỷ lệ 1/50.000), các kết quả đã và đang thăm dò khoáng sản cho thấy trên địa bàn tỉnh có khoảng 220 mỏ, khu mỏ khoáng sản và điểm quặng thuộc các loại khoáng sản kim loại, khoáng chất công nghiệp, vật liệu xây dựng và nước khoáng - nước nóng. Cụ thể:
+ Khoáng sản vàng: Đã phát hiện 19 điểm quặng và 3 điểm khoáng hóa vàng, tập trung chủ yếu ở Đakrông, Hướng Hóa, Vĩnh Linh. Tài nguyên dự báo gần 48 tấn, ngoài ra khoáng sản vàng sa khoáng phân bố khá rộng rãi trên các lưu vực sông Đăkrông, sông Rào Thanh, sông Sê Păng Hiêng, sông Sê Pôn có quy mô rất nhỏ phân bố rải rác với hàm lượng vàng thấp, không đáp ứng yêu cầu để thăm dò, khai thác ở quy mô công nghiệp.
+ Khoáng sản Titan: Đây là một trong những khoáng sản có giá trị của tỉnh. Chúng phân bố trong các dải cát dọc bờ biển tỉnh Quảng Trị từ Vĩnh Linh đến Hải Lăng dưới dạng sa khoáng. Tài nguyên dự báo trên 1,7 triệu tấn Titan.
+ Khoáng sản đồng: Phát hiện một điểm quặng đồng Tà Rẹc, xã Ba Nang, huyện Đakrông. Điểm quặng đồng Tà Rẹc có quy mô nhỏ, hàm lượng đồng trong quặng không cao. Tài nguyên dự báo 150.000 tấn đồng.
+ Quặng sắt: Đã phát hiện 19 mỏ và điểm quặng sắt, phân bố chủ yếu ở Cam Lộ, ngoài ra còn có ở Hướng Hóa, Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong và Hải Lăng. Theo các tài liệu đã công bố đến nay, thì khoáng sản sắt của tỉnh có quy mô nhỏ; tổng tài nguyên dự báo khoảng 3,55 triệu tấn. Quặng sắt ở Quảng Trị ít ý nghĩa với công nghiệp luyện kim nhưng là nguồn nguyên liệu tốt đối với lĩnh vực sản xuất xi măng
+ Đá vôi xi măng: Phân bố tập trung chủ yếu ở huyện Cam Lộ và Hướng Hóa, Tài nguyên dự báo gần 3,7 tỷ tấn.
+ Sét xi măng: Có 6 điểm sét xi măng, phân bố ở Cam Lộ và Hướng Hóa. Tài nguyên dự báo của sét xi măng khoảng 65 triệu tấn.
+ Đá bazan: phân bố ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh, như Vĩnh Linh, Cùa, Gio Linh, Hướng Hóa. Tài nguyên dự báo trên 150 triệu tấn.
+ Đá xây dựng: Đá xây dựng ở Quảng Trị phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở trục quốc lộ 9 và các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và Hướng Hoá, đang tiến hành thăm dò, khai thác tại khu vực Khe Đá (xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh) và khu vực thôn Hoàn Cát (xã Cam Nghĩa, huyện Cam Lộ).
+ Sét gạch ngói: tập trung chủ yếu ở Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ và Hướng Hoá.
+ Cát, cuội, sỏi: Tập trung chủ yếu ở thượng nguồn các sông trên toàn tỉnh, có vai trò rất quan trọng trong xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình dân dụng.
+ Cát trắng phân bố ở ven biển tại các huyện Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng, nhưng tập trung nhiều ở khu vực Cửa Việt. Một số mỏ cát trắng ở xã Gio Mỹ và Gio Thành, huyện Gio Linh có chất lượng tốt sẽ được khai thác phục vụ sản xuất chế biến sản phẩm phôi thuỷ tinh siêu sạch, sợi thuỷ tinh phục vụ trong nước và xuất khẩu.
+ Kaolin phân bố ở phía tây thuộc khu vực rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ Vĩnh Linh, Hướng Hóa, Đakrông...
+ Than bùn: Có quy mô nhỏ, chất lượng đáp ứng yêu cầu của nguyên liệu sản xuất phân bón, phân bố ở Gio Linh, Hải Lăng.
+ Nước khoáng - nóng phân bố chủ yếu ở Đakrông, Cam Lộ và Triệu Phong, trữ lượng tại các điểm nói chung thuộc loại trung bình đến nhỏ.
2 – Tài nguyên nước:
2.1 – Nước mưa:
Lượng mưa hàng năm tính trung bình trên phạm vi toàn tỉnh (theo phương pháp đường đẳng lượng mưa) đạt trên 2300 mm. Trong phạm vi tỉnh Quảng Trị, lượng mưa năm phân bố không đều theo không gian, phụ thuộc vào hướng sườn dốc và phù hợp với xu thế tăng dần của mưa theo độ cao địa hình. Do địa hình có xu thế tăng dần từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam nên lượng mưa năm cũng có xu thế tăng dần từ Đông (tức từ vùng đồng bằng ven biển) sang Tây (tức khu vực núi cao thuộc dãy Trường Sơn ở phía tây của tỉnh) và từ Bắc xuống Nam (tức là về phía tâm mưa A Lưới). Nơi mưa ít nhất là những thung lũng khuất gió như Khe Sanh (2091,6 mm), Tà Rụt (1936,7 mm) và phía hữu ngạn của thượng nguồn sông Sê Pôn (≤ 1800 mm). Nơi mưa nhiều nhất (≥ 3000 mm) là khu vực núi cao thuộc dãy Trường Sơn ở phía tây của tỉnh, thượng nguồn các sông Rào Quán, Sông Hiếu (Cam Lộ). Lượng mưa năm của nơi mưa nhiều nhất lớn gấp trên 1,7 lần lượng mưa năm của nơi mưa ít nhất. Khu vực trung lưu của các sông Bến Hải, sông Hiếu có lượng mưa hàng năm cỡ 2200-2400 mm. Khu vực trung lưu sông Thạch Hãn; khu vực Thành phố Đông Hà; vùng đồng bằng ven biển thuộc hạ lưu các sông Thạch Hãn, Bến Hải và khu vực đảo Cồn Cỏ có lượng mưa hàng năm trong khoảng từ 2200 đến 2400 mm. Lưu vực sông Thác Mã, Ô Lâu nằm ở rìa phía Bắc của tâm mưa A Lưới nên có lượng mưa hàng năm khá lớn, cỡ 2400- 2600 mm.
- Lượng mưa năm cực đại tại tất cả các trạm rất lớn, đều đạt trên 3200 mm (nhỏ nhất tại đảo Cồn Cỏ: 3288,7 mm và lớn nhất tại Thạch Hãn: 4030,3 mm, 3678 mm vào những năm 1999 và 2017).
Mùa mưa và mùa khô bắt đầu và kết thúc không đồng bộ trên toàn tỉnh Quảng Trị. Các khu vực thuộc sườn phía Đông Trường Sơn (Đông Hà, Gia Vòng, Cồn Cỏ, Thạch Hãn và Cửa Việt) có mùa mưa xuất hiện muộn và ngắn, chỉ 3 đến 4 tháng (từ tháng 9 đến tháng 11 hoặc 12) còn mùa khô kéo dài tới 8-9 tháng (từ tháng 12 năm trước đến tháng 8 năm sau hoặc từ tháng 1 đến tháng 8). Các khu vực thuộc sườn phía Tây Trường Sơn có mùa mưa đến sớm hơn và kéo dài hơn (từ tháng 5 đến tháng 11) còn mùa khô ngắn hơn (từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau).
Sự phân hóa giữa hai mùa mưa-khô ở tỉnh Quảng Trị khá sâu sắc. Đối với các khu vực thuộc sườn phía Đông Trường Sơn, tổng lượng mưa của 4 tháng mùa mưa chiếm tới 59-73% tổng lượng mưa năm; trong khi đó, tổng lượng mưa của cả 8 tháng mùa khô chỉ chiếm 27-48% . Tại các khu vực thuộc sườn phía Tây Trường Sơn, tổng lượng mưa của 7 tháng mùa mưa chiếm tới xấp xỉ 90% tổng lượng mưa năm còn tổng lượng mưa của 5 tháng mùa khô chỉ chiếm trên dưới 10%.
Trên cơ sở các kết quả quan trắc lượng mưa tại các trạm đo mưa trên địa bàn tỉnh thời gian từ 1976 - 2020. Lượng mưa hàng năm nằm trong khoảng 2.000 ÷ 2.700 mm. Trị số này tăng mạnh theo hướng từ Ðông sang Tây và từ Bắc xuống Nam, tập trung chủ yếu vào các tháng mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 chiếm tới 70% lượng mưa năm. Tháng 5 hàng năm thường xảy ra các trận mưa ngắn ngày, cường độ tập trung, gây ngập lụt cục bộ trong đồng sinh lũ gọi là lũ tiểu mãn. Lũ tiểu mãn không gây nhiều thiệt hại về người và các cơ sở hạ tầng nhưng có ảnh hưởng xấu đến phát triển trồng trọt. Lũ tiểu mãn cũng là một đặc trưng thời tiết xuất hiện ở miền Trung Việt Nam vào tháng 5 hàng năm.
2.2 – Nước mặt:
a) Mạng lưới sông ngòi
Vùng nghiên cứu gồm có 3 lưu vực sông chính là Bến Hải, Thạch Hãn và Ô Lâu:
- Sông Bến Hải có diện tích lưu vực 813 km2 bắt nguồn từ đỉnh Đông Y có cao độ 1.254m với chiều dài 51,5km. Sông có 3 nhánh chính là Rào Thanh, Sa Lung và Cánh Hòm.
- Sông Thạch Hãn: Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở độ cao 700m, chiều dài 156km. Sông chảy quanh co uốn khúc, hướng chảy của sông thay đổi có đoạn ngược hẳn 1800. Dòng chính Thạch Hãn đoạn thượng nguồn (sông Ðakrông) chảy quanh dẫy núi Da Ban khi về tới Ba Lòng sông chuyển hướng Ðông Bắc và đổ ra biển tại cửa Việt. Toàn bộ diện tích lưu vực 2.660km2. Sông Thạch Hãn có các nhánh chính Rào Quán, Vĩnh Phước, Sông Hiếu (Cam Lộ).
- Sông Ô Lâu: Sông Ô Lâu bắt nguồn từ vùng đồi núi huyện A Lưới (Huế) ở độ cao 900m, sông chảy theo chiều Bắc - Nam, đến Hoà Mỹ sông bắt đầu chảy trong vùng đồi thấp giữa Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế. Sông cắt đường 1A tại cầu Mỹ Chánh và đổ vào phía Tam Giang tại cửa Lác. Diện tích lưu vực sông Ô Lâu tính đến cửa Lác là 700 km2 và tính đến Cầu Nhi là 503 km2. Sông dài 65 km. Từ Vân Trình đến cửa Lác sông Ô Lâu nhận thêm nhánh Vĩnh Định, sông làm trục tải nước Bắc Nam.
Ngoài ra, ở phía Tây giáp biên giới Việt - Lào có một số sông nhánh chảy theo hướng Tây thuộc hệ thống sông Mê Kông. Các nhánh điển hình là sông SêPôn đoạn cửa khẩu Lao Bảo - A Đớt, sông Sê Păng Hiêng đoạn đồn biên phòng Cù Bai, Hướng Lập (Hướng Hóa).
b) Nguồn nước mặt
Quảng Trị nằm trong vùng mưa tương đối lớn của miền Trung. Tổng lượng nước đến trên toàn tỉnh trung bình hàng năm 6,92 tỷ m3. Hàng năm lưu vực sông Bến Hải tổng lượng nước đến 1,29 tỷ m3 với lưu lượng bình quân Qtb = 40,82 m3/s, sông Thạch Hãn tổng lượng 3,91 tỷ m3 với Qtb = 123,8 m3/s. Tổng lượng nước đến lưu vực sông Ô lâu trên địa bàn Quảng trị 0,74 tỷ m3 với Qtb= 23,6 m3/s, lưu vực sông Sê Pôn 0,57 tỷ m3 và lưu vực sông Sê Păng Hiêng 0,46 tỷ m3.
Phân phối dòng chảy năm trong năm: Lượng nước chủ yếu tập trung vào các tháng mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12, chỉ trong vòng thời gian có 4 tháng mà lượng nước trên các sông suối đã chiếm tới khoảng 70% lượng nước của cả năm. Ngược lại, thời kỳ mùa cạn kéo dài 8 tháng liền, nhưng lượng nước cũng chỉ chiếm vào khoảng trên dưới 30% lượng nước của toàn năm, mặc dù trong thời gian này bao gồm cả mùa mưa lũ tiểu mãn hàng năm. Dòng chảy lớn nhất là vào tháng 10 , lớn gấp gần 4 lần so với dòng chảy trung bình năm, còn lượng dòng chảy nhỏ nhất là vào tháng 4, chỉ xấp xỉ 1/5 dòng chảy trung bình năm.
Lượng nước trung bình nhiều năm của các tháng mùa lũ lớn hơn rất nhiều so với các tháng mùa cạn, nhất là các tháng 10 và 11, có thể lớn gấp 15-20 lần lượng nước trong những tháng có dòng chảy bình quân nhỏ nhất như tháng 7 hay tháng 3, tháng 4.
2.3 – Nước ngầm:
Theo đánh giá trữ lượng nước ngầm ở Quảng Trị của Dự án “Biên hội bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 các tỉnh trên toàn quốc” của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên Quốc Gia thực hiện năm 2018.
Tổng trữ lượng khai thác tiềm năng: 1.542.975 m3/ngày.
Trữ lượng có thể khai thác là: 965.295 m3/ngày.
Độ dốc thuỷ lực của các tầng chứa nước nhìn chung rất nhỏ 0,008 - 0,012 m. Độ sâu mực nước ở trung tâm các lưu vực thường chỉ vào khoảng 1,0 - 2,0 m. Trên các cồn cát và các cánh đồng trước núi, nón phóng vật thì mực nước nước dưới đất nằm sâu hơn 2,0 - 5,0 m. Các tầng chứa nước lỗ hổng ở Quảng Trị có bề dày khá lớn 10 - 30 m đôi chỗ đạt được 35 m.
Nước khe nứt tồn tại trên một diện tích rất rộng, chiếm tới 4/5 tổng diện tích của tỉnh Quảng Trị, nằm trong đới nứt nẻ phong hoá và các đới phá huỷ kiến tạo trong các địa tầng có tuổi từ Proterozoi đến Neogen. Thành phần bao gồm các trầm tích lục nguyên trầm tích Carbonat, các đá biến chất, các đá phun trào. Về chất lượng, nhìn chung khe nứt thuộc loại siêu nhạt (M < 0,1g/l) và lợ nhạt (M = 0,1 - 0,5 g/l), khá phù hợp với tiêu chuẩn nước uống.
3 - Tài nguyên đất:
+ Nhóm đất cát biển chiếm hơn 7% diện tích tự nhiên và phân bố chủ yếu trên địa bàn ven biển, loại đất có độ dinh dưỡng nghèo nhất, việc khai thác sử dụng không chỉ đòi hỏi đầu tư cao và đồng bộ mà còn cần có thời gian để cải thiện điều kiện sinh thái, hạn chế tình trạng cát bay, cát lấp vốn là yếu tố bất thuận không chỉ đối với việc tổ chức khai thác sử dụng nhóm đất cát mà còn gây tác động xấu tới đời sống sản xuất của vùng đồng bằng ven biển. Những năm gần đây, một số mô hình nông - lâm - thuỷ sản kết hợp đã được xây dựng và mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cả về kinh tế và sinh thái. Trong các năm tới cần tổ chức đầu tư phổ biến các mô hình này đối với vùng ven biển nhằm khai thác hợp lý và hiệu quả tài nguyên nhóm đất cát còn khá lớn.
+ Nhóm đất đỏ vàng: 357.191 ha - 75,98% diện tích tự nhiên; chủ yếu núi cao vùng đất lâm nghiệp; vùng địa hình thấp phát triển cây lâu năm, cây ăn quả, màu.
+ Một số loại đất tuy chỉ chiếm 28,5%, nhưng có chất lượng tương đối tốt, có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, như: đất nâu đỏ và nâu vàng trên đá bazan (Fk, Fu), nhóm đất phù sa (P), đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp), đất vàng nhạt trên đá cát (Fq)… phân bố tương đối tập trung trên địa hình khá bằng, gần các trung dân cư, các trục giao thông… Đây là các loại đất thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp và phần lớn diện tích đã được khai thác sử dụng. Nhiều vùng nông sản chính có giá trị kinh tế của Quảng Trị đã và đang được hình thành trên các vùng đất này như vùng cà phê chè ở Hướng Hoá, vùng hồ tiêu ở Tân Lâm, vùng cao su, hồ tiêu ở Vĩnh Linh, Gio Linh (chủ yếu trên đất bazan), vùng lúa của các đồng bằng Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải Lăng (chủ yếu trên đất phù sa)…