Dân số - Xã hội

17:5, Thứ Hai, 8-7-2024

I – Quy mô dân số:

Tỉnh Quảng Trị thuộc nhóm các tỉnh có ít dân, xếp thứ 13/14 trong khu vực Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung và thứ 56/63 của cả nước. Năm 2020, dân số trung bình của tỉnh là 638.627 người, tăng 37.062 người – tăng khoảng 6% so với năm 2010. Trong đó, dân số thành thị là 207.305 người, dân số nông thôn là 431.322 người. Tỷ lệ đô thị hóa là 32,5%  - Tỷ lệ này năm 2009 là 27%.

Tỷ lệ tăng dân số trung bình của tỉnh trong giai đoạn 2010 – 2020 là 0,60%/năm, tăng nhẹ so với giai đoạn 1999 – 2009 là 0,43%/năm. Tốc độ tăng dân số trung bình khu vực thành thị trong giai đoạn 2010 – 2020 là 1,98%/năm - cao hơn mức chung của toàn tỉnh.

II - An sinh xã hội:

Hiện nay số lượng đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp hàng tháng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị khá lớn, với 47.256 đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội tại cộng đồng.

Trên địa bàn tỉnh đang có 05 cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó có 2 cơ sở công lập và 3 cơ sở ngoài công lập, chăm sóc, nuôi dưỡng khoảng 268 người, trong đó có 111 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 18 người cao tuổi; 50 người khuyết tật và 60 người mắc bệnh tâm thần; 26 đối tượng khác và điều dưỡng 1.500 người có công với cách mạng…

a) Chính sách người có công

Tỉnh đã huy động được nhiều nguồn lực để đầu tư xây dựng, nâng cấp, tôn tạo các nghĩa trang liệt sỹ, các công trình tri ân và chăm sóc người có công với cách mạng như xây dựng nhà tình nghĩa; trao tặng quà, sổ tiết kiệm cho người có công và thân nhân; Toàn Tỉnh có 37 bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đều được các tổ chức, cá nhân nhận phụng dưỡng, chăm sóc. 

b) Bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Tiếp tục thực hiện tốt công tác giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Các quyền cơ bản và nhu cầu chính đáng của trẻ em về chăm sóc sức khoẻ, học tập, vui chơi giải trí; phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em được thực hiện tốt. Có 97% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt được chăm sóc, bảo vệ; 100% cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được đào tạo kỹ năng cơ bản.

c) Công tác bình đẳng giới

Tỷ lệ cán bộ nữ làm việc trong các cơ quan nhà nước, tham gia vào vị trí lãnh đạo ngày càng tăng. Tỉnh đã đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sống và nâng cao địa vị kinh tế của người phụ nữ trong gia đình. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đã hỗ trợ cho 440 phụ nữ khởi sự, khởi nghiệp; xây dựng hơn 200 mô hình kinh tế giỏi; hơn 250 tổ hợp tác, tổ liên kết nhằm kết nối các nguồn lực và hỗ trợ lẫn nhau để sản xuất kinh doanh. Trong 5 năm (2016 – 2020), Hội đã nhận giúp đỡ 17.782 lượt hộ phụ nữ nghèo làm chủ hộ, đã có 3.933 lượt hộ thoát nghèo.

d) Công tác phòng chống tệ nạn xã hội

Tỉnh Quảng Trị chủ động triển khai thực hiện kịp thời các văn bản chỉ đạo về phòng, chống tệ nạn xã hội. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các đối tượng tránh xa ma túy, tham gia cai nghiện, không tái nghiện, rèn luyện để trở thành người tốt, làm ăn lương thiện. Xây dựng mô hình “Khu dân cư phòng, chống ma túy” ở các khu phố. Bố trí số thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương tham gia dân quân tự vệ, bảo vệ dân phố, thành lập CLB quân nhân để tạo sân chơi lành mạnh, nâng cao ý thức của đoàn viên thanh niên tránh xa các tệ nạn xã hội.

III  - Công tác giảm nghèo:

Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều của tỉnh Quảng Trị năm 2020 là 7,03% - giảm 8,4 điểm phần trăm so với năm 2015. Mức giảm nghèo bình quân trong giai đoạn 2016 – 2020 là 1,77% .

Từ năm 2013 – 2018, tổng nguồn vốn để thực hiện các chính sách, dự án của Chương trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh là 5.868 tỷ đồng (bình quân 838 tỷ đồng/năm).

Ngoài ra, trong giai đoạn vừa qua, tỉnh đã thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm, đào tạo nghề gắn liền với công tác giảm nghèo, giúp người nghèo thoát nghèo bằng chính khả năng của mình, có thể tự tìm kiếm việc làm sau khi đào tạo. Các cơ sở dạy nghề đã tổ chức tuyển sinh, đào tạo nghề cho 2.039 lao động nông thôn; trong đó, có 42 người thuộc diện hộ nghèo, 19 người thuộc hộ cận nghèo, 86 lao động là người dân tộc thiểu số và 10 lao động là người khuyết tật.